Phần nhiều những nhân vật mà ông chọn làm đề tài đều là những người có thân thế sự nghiệp, ai cũng có những dấu ấn khác thường
Cho đến việc điều tiếng vừa qua tại chùa Trăm Gian, với nhân cách là Giám đốc Sở, ông Long cũng phải chịu trách nhiệm. Vốn liếng đời thì cong và trắc ẩn, mà nghĩ suy của ông thẳng như mũi tên, làm sao không rước họa vào thân. Văn Cao Bá Quát khí khái, chính trực. Từ nước ngoài vừa đặt chân về quê hương, ông đã bị triều đình bắt giam.
Chọn Phan Thanh Giản làm đề tài đưa lên sân khấu là một cách nhìn lạ. Người ta đọc những bài báo ông viết. Rằng cách đây vài năm, một đồng chí cán bộ rất to, yêu cầu và giới thiệu một nữ doanh nghiệp với Sở cho cô được sử dụng hàng trăm mét đất, dựng ki ốt bên ngoài hàng rào Cung Thể thao Quần Ngựa.
Các vở diễn trên còn là thành công mới của tác giả và Nhà hát. Ngày mở đầu, Phạm Quang Long và lãnh đạo Sở đã không nhầm khi chọn các đơn vị văn hóa Quân đội là nơi gửi gắm. Những năm qua, trong hàng chục kịch bản đủ loại đề tài, nhiều vở của ông đã được công diễn. 000 năm Thăng Long - Hà Nội với một vai trò cơ quan tổ chức thực hiện khá nhiều việc lớn.
Ai cũng thế thôi. Nhưng nhiều hơn cả là ông viết kịch bản sân khấu. Lẽ đời là như vậy. Phạm Quang Long là cả một câu chuyện dài. Thơ của ông đậm chất trữ tình và ngẫm nghĩ. Trong cái guồng máy ấy, hẳn nhiên Giám đốc phải là rường cột. Vốn dĩ Phan Thanh Giản là người thuộc phía chủ chiến với Pháp chứ không chủ hòa.
Nhìn chương trình hoạt động mà hoa cả mắt. Nhân vật trong kịch bản trình diễn. Cũng sẽ là yếu tố tương tác với khán giả. Không nên vì cả nể mà chấp thuận một việc làm sẽ có hậu quả xấu, phải chịu búa rìu của dư luận. Nếu ông đồng ý, sự việc diễn ra hậu quả sẽ rất khó lường. Ông đã mất ăn mất ngủ vì sự kiện điều tiếng đó. Chính người yêu cầu với Sở Văn hóa Hà Nội cũng phải dìm lời chối từ của Phạm Quang Long là đúng, thực chất là tránh được rắc rối.
Vở đã được hí trường chèo Hà Nội và đạo diễn Doãn Hoàng Giang thổi vào đó một sức sống mới, một luồng nhựa sống. Cũng có sự khó chịu của vài người đối với cách xử lý của ông Long. Khi mà danh dự, lòng tự trọng, giá trị căn bản của văn hóa, thứ có thể cứu rỗi tầng lớp, đang mờ nhạt trong xu thế xuống cấp của đạo đức. Nguyên tắc ấy, có thể hiểu ông như một cái thước đưa ra để đo lường các sự việc dưới góc độ giá trị văn hóa.
Cả Sở gồng mình lên để đảm trách công việc. Trong quá trình dàn dựng, việc nhận thức vấn đề vở diễn, tính cách nhân vật, ý đồ tác giả… là rất quan yếu.
Như Nghệ sĩ nhân dân Doãn Hoàng Giang phán một câu rất vuông rằng: “Tôi làm việc với lãnh đạo giới văn hóa nhiều, ít thấy ai có “phông” văn hóa như Long.
Câu chuyện này rất ít người biết. Quan yếu hơn, ông Long từ khước để bảo vệ uy tín của đồng chí lãnh đạo nọ. Trong các sở thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải đảm trách công việc nặng nhất. Như là phong cách của ông, ông chọn gì để kể, ông tâm can gì trong đó, người ta còn nhắc tới, còn bàn thảo. Thích thú hơn là dịp kỷ niệm 1.
Câu chuyện sinh động, hấp dẫn của vở làm người ta cười đấy nhưng cũng đau lắm, đau khi nhìn thấy cái hèn mạt của con người. Người ta bàn việc ông viết kịch bản sàn diễn và làm chèo. Hai vở của Phạm Quang Long đẹp và buồn như một bản trường ca, một tiếng thở dài của thời cục.
Cho dù Cao Bá Quát bị chu di tam tộc, Nguyễn Công Trứ lúc được thăng, lúc bị giáng. Ông đã bội thu trên cánh đồng nghệ thuật. Cũng phải nói thêm rằng không phải việc gì của Phạm Quang Long cũng xuôi chèo mát mái. Ông thì vui, vì Thời gian của ông hiện không còn là của quốc gia.
Mỗi người chúng ta trên cõi đời này đều là một câu chuyện.
Trải nghiệm của cả thế cuộc, xúc tiếp với bao nhiêu sự kiện, xử sự bao lăm tình huống, vẫn khó đổi thay một cách nhìn của một ông thầy giảng dạy văn chương, từ lâu định hình ở ông như một nguyên tắc sống.
Trong trường đời thật giả, đã khiến nhân vật trở nên kẻ đối nghịch với nhà vua và triều đình. Nhiều năm giữ trọng trách ở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, việc sáng tác là việc riêng của Phạm Quang Long. Có tới vài chục kịch bản nhỏ to, huy động đa số văn nghệ sĩ tiếng tăm của Hà Nội và cả nước dự.
Thời gian còn lại, bao nhiêu tâm can và ước nguyện ông dành cho sáng tác. Có một số câu chuyện cho phép hiểu được phần nào cách suy nghĩ và hành xử của ông.
Ông còn nghĩ sự việc đó rất mẫn cảm. Các kịch bản Quan lớn về làng, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ của Phạm Quang Long được các nghệ sĩ tài danh của Hà Nội như Nghệ sĩ ưu tú Trần Quốc Chiêm - Phó Giám đốc Sở; Chỉ đạo nghệ thuật, Nghệ sĩ ưu tú Trịnh Thúy Mùi - Giám đốc rạp hát, Nghệ sĩ ưu tú Quốc Anh - Phó Giám đốc hí viện, và các nghệ sĩ Thu Hằng, Đình Thuận, Thục Khanh, Thu Huyền, Quốc Phòng… trực tiếp dự dựng vở.
Cả ba nhân vật đều là người đỗ đạt, làm quan nhưng lại không chịu yên vị với chỗ đứng và bổng lộc của triều đình. Các vở này của Phạm Quang Long đã nhận được sự nhiệt thành và đồng thuận rất cao của cả ê kíp sáng tạo, từ tác giả kịch bản, đến đạo diễn và các nghệ sỹ.
Đối với người khác, tình huống này có thể là một nhịp hỏi vợ. Lợi thế của một đời giảng dạy văn học bổ trợ cho ông rất nhiều. Lúc đầu câu chuyện có vẻ khó ăn, khó nói.
Còn cái khác người ở Cao Bá Quát - người đã dám tuyên ngôn: Nhất sinh đê thủ bái hoa mai. Xét cho cùng là vì đâu? lỗi ấy là do sự yếu kém của xã, huyện hay Sở? Sau vụ chùa Trăm Gian, ngành di sản văn hóa đã phải điều chỉnh các văn bản có tính pháp quy về sự quản lí của Nhà nước đối với các di tích lịch sử - văn hóa đó sao? Với ông Long, ông đủ anh dũng nhấn phần lỗi từ cá nhân chủ nghĩa mình.
Khí tiết của một nhà nho, một trí thức lớn của thời phong kiến Việt Nam , đã khiến ông sống không yên và đã chọn cái chết để sửa sai lầm và thân oan cho bản thân mình. Kịch bản nào cũng quan yếu, nhưng lớn hơn là nội dung ngày 1 tháng 10 mở đầu Đại lễ và ngày 10 tháng 10 chấm dứt Đại lễ.
Họ có kỷ luật, họ quen tổ chức những sự kiện văn hóa có màu sắc chính trị. Theo yêu cầu của Trường Đại học Khoa học tầng lớp & Nhân văn, ông về trường đấu giảng dạy và viết những gì mình thích. Bởi vậy khi ra đời, tính cách nhân vật như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát là những chân dung có tính văn học, nhưng lại rất gần với đời thực được ghi trong các văn bản. # Hình ảnh của đời cha ông ta, họ không màng lợi danh gì, ngoài giữ cho mình trong lành.
Đó cũng là tính thời sự của vở diễn sắp ra mắt. Dư luận sẽ xúm vào đồn thổi, bàn tán. Ông tôn thờ vẻ đẹp mà triều chính đương thời khó thấy của hai nhân vật lịch sử, ông gửi vào đó những thông điệp, để cõi trần sau hiểu rõ cách sống vì nước, vì dân của hai số đầy trắc ẩn. Cái lão ấy uyên bác”. Còn ông Long thì khác. Nhưng ở Nợ non nước - vở đang chuyển thể cải lương để dàn dựng, tác giả lại chọn nhân vật Phan Thanh Giản, lại một thế cục không thường ngày để đưa lên sàn diễn.
Các nhân vật của ông đều là những cá tính và bút lực mạnh mẽ, họ dùng dắng giữa tư tưởng trung quân và tư tưởng vì dân, họ là những trí thức phong kiến thực sự, nhiều lúc họ thấy đúng, thấy phải, thấy có lợi cho dân, cho nước là họ hành động.
Nhất là khi ông chọn Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ và sau này là vở Nợ núi sông về nhân vật Phan Thanh Giản để viết.
Chẳng cần suy nghĩ lâu, với tư cách là người chủ trì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ông Long đã chối từ. Dân tộc Việt sở dĩ trường tồn từ những lẽ sống như thế. Nhưng khi triều đình sai ông đi sứ, ông đã rơi vào bẫy của những kẻ thời cơ.
Người ta nhắc đến những ngày ông làm quan văn hóa ở Hà Nội. Một cái khẩu hiệu treo lệch trên đường phố Hà Nội người ta cũng gọi đến ông. Ông bị lừa và phải cắt đất để ký hòa ước với Pháp.
Ở đây phải chăng tác giả muốn nhấn mạnh và đề cao danh dự của một nhà nho trí thức thời trước, cũng là đặt câu hỏi thầm trước công chúng với trí thức ngày nay. Họ có 7 - 8 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp trên địa bàn. # Nghèo khổ trong cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành ở thanh bình.
Nhưng cận cảnh là tiếp xúc trực tiếp với khối nghệ thuật sàn diễn vốn đa dạng phong phú đang rất khởi sắc của thủ đô. Ông Long cũng không kể. Nguyễn Công Trứ lận đận với vài lần đua, vài lần thăng, giáng chức.
Làm quan cũng như làm báo, làm nghệ thuật, ông luôn lắng tai tiếng nói sâu nhất từ chính lương tâm mình. Vở Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát của Phạm Quang Long bám khá sát với thế cuộc thực của hai vị thùng năng này. Vở chèo Quan lớn về làng là một ngôn ngữ mạnh mẽ, minh họa thêm cho sức mạnh của quyết nghị Trung ương 4 đang được cập nhật toàn từng lớp. Ngày ông đang làm Giám đốc Sở, người ta đã kể về ông.
Triều đình đã bắt tội khi ông thả một thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa và đày ông đi biên ải. Giữa năm 2013, Phạm Quang Long đã nghỉ hưu. Ở vở này tác giả muốn truy phong sự cải hối của một tâm hồn thuần khiết, một lòng tự tôn ráo của danh sĩ thời xưa trước vận mệnh đất nước.
Vở Nguyễn Công Trứ còn quyến rũ ở chỗ, ông nghiêng về đời hơn nghiêng về quan, ông chế giễu chính mình, ông đùa giỡn với cơ chế và được thung thăng trong những cuộc tình với thị Liễu, một cô thôn nữ yên bình.
Nó đẩy tư duy của vở đi vào chiều sâu người yêu thế thái. Có cảm giác như sân khấu mới là lĩnh vực ông thích thú và thả mình, buông rời con người công chức đôi khi buộc phải máy móc. Những vở này của ông vừa là chính kịch, vừa có nhân tố bi hài kịch. Quân đội soạn kịch bản, quân đội tổ chức thực hiện. 000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Khi ông nghỉ rồi người ta kể về ông nhiều hơn. Khi ở đâu đó, con người ta đang sống bất chấp vì cái lợi của chính mình.
Một số vở được dư luận đánh giá cao, được các giải thưởng lớn của ngành sân khấu. Con đường phía ngoài của Cung Thể thao Quần Ngựa đang quang quẻ, hốt nhiên mọc lên những ki ốt, không bao lâu, khuôn viên ấy sẽ bị cắt nát thành một cái chợ con.
Thời gian qua đi, cảm xúc lắng xuống. Ông viết báo nhiều và làm khá nhiều thơ. Nhất là khi ông bênh quần chúng. Lệ luật phong kiến như cái áo chật không vừa cơ thể.
Bạn bè thì tiếc, không phải tiếc nuối việc ông nghỉ chức Giám đốc, mà nhớ tiếc một người hiểu biết rộng, không còn được “dụng công”. Chủ đề có thể không có tính ẩn ý, nhưng các vở, vẫn tự nó tạo cho người xem một sự so sánh nhẹ nhàng, giữa tư cách của các nhà nho xưa với trí thức ngày nay.
Ông để lại nhiều dấu ấn cho bạn bè và công chúng thủ đô. Ông đối chất với cái xấu, cái thấp hèn, soi rọi và nâng niu những phẩm chất ẩn kín trong số của nhân vật. Từ tác phẩm Quan thanh tra của Gogol ông chuyển thành vở Quan lớn về làng. Rõ nét nhất là một cách nhìn rất thẳng. Đồng thời cảnh diễn là những lát cắt trong vở nhẹ nhõm và đẹp như một đêm trăng, tạo thư giãn cho người xem trước những cảnh diễn căng bức.
Xét về lý lẽ, họ vì cái gốc (tư tưởng dĩ dân vi bản) chứ không vì cái ngọn và họ đã vấp ngã. Đó là cách nhìn của tác giả, là sự ý hợp tâm đầu của Phạm Quang Long.
Tôi còn được trông thấy ông bận bịu trong không khí kỷ niệm 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét